Blogger templates

Hiển thị các bài đăng có nhãn Khuôn Vàng Thước Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khuôn Vàng Thước Ngọc. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

Khuôn Vàng Thước Ngọc: Người nào ôm lòng phiền hận thì đau khổ

Letting go of resentment is one way to harbor inner peace.

Người nào ôm lòng phiền hận thì đau khổ
Lược ghi bài giảng “Những cái vui trong đạo Phật” của Hòa thượng Thích Thanh Từ - Bùi Hiền, theo Kienthuc.net.vn

Nếu chúng ta có tài vật dư dả nên vui vẻ xả, giúp cho những người bần cùng đói rách. Của cải do mồ hôi nước mắt mình tạo, mình cảm thấy đủ hay dư thì vui xả cho những người nghèo thiếu hay những người ít ỏi hơn. Đó là hỷ xả tài vật bên ngoài.

Tuy vậy cũng hơi khó làm, vì có nhiều người, kẻ khác thấy họ dư mà bản thân họ lại thấy thiếu. Có một đồng muốn hai đồng, có hai đồng muốn mười đồng, có mười đồng muốn ba mươi đồng, muốn cho đến ngày tắt thở mà vẫn thấy chưa đủ. Như vậy làm sao xả được? Cho nên muốn hỷ xả chúng ta phải học Phật.

Phật dạy ít muốn, biết đủ. Chúng ta biết đủ thì mới xả được, không biết đủ thì không thể nào xả được. Người không biết đủ giống như cái túi không đáy, bỏ vào bao nhiêu tuột hết bấy nhiêu, bỏ bao nhiêu cũng không đầy, do cái bệnh không biết đủ, như vậy làm sao mà xả?

Ví dụ mỗi ngày buổi trưa chúng ta ăn ba chén cơm là đủ no, dù có đồ ăn ngon, chúng ta cũng ăn ba chén, phần dư thì giúp cho người, hoặc cho vật. Dù đấy là phần dư của mình, nhưng cũng là một lối xả. Chớ nên ăn ba chén vừa no, thấy đồ ăn ngon, ăn thêm nữa, như vậy là phí phạm, vì lượng thức ăn chừng đó là đủ, ăn thêm là dư.

Đó là nói về cái ăn, còn bao nhiêu cái khác. Chẳng hạn như cái mặc, chúng ta có ba bộ đồ đủ để mặc, thêm bộ thứ tư là dư rồi nhưng có bộ thứ tư thấy chưa đủ, mua thêm bộ thứ năm cũng thấy chưa đủ nữa.

Như vậy chừng nào mới đủ để xả? Không biết đủ thì không bao giờ xả được. Muốn xả phải biết đủ, biết đủ mới xả được, của dư đem giúp người không một chút luyến tiếc. Đó là tâm hỷ xả, vui vẻ giúp người chớ không bị bắt buộc.

Hỷ xả tài vật tuy khó nhưng dễ hơn hỷ xả cố chấp phiền muộn ở tâm. Khi có người làm phiền mình thì gương mặt buồn hoặc nhăn nhó. Muốn hết phiền phải tập xả; xả này là tha thứ, là bỏ qua.

Phiền ở đây là phiền não và sân hận, hai thứ đó chất chứa trong lòng, mình phải buông xả nó đi. Người nào ôm lòng phiền hận thì đau khổ, đau khổ từ hiện tại cho đến mai kia, chớ không phải đau khổ trong hiện tại thôi.

Vì vậy, khi biết mình đang ôm lòng phiền hận người này kẻ khác thì phải vui vẻ bỏ, nghĩa là bao nhiêu cái phiền muộn đang chứa chấp trong lòng phải hỷ xả hết. Muốn xả của cải chúng ta phải biết đủ. Muốn bỏ phiền hận phải làm sao?

Muốn bỏ phiền hận trong lòng, chúng ta phải thấy cuộc đời là vô thường, cái chết đang kề cận, ôm phiền hận làm gì.

Do nghĩ cái chết sắp đến nên chúng ta buông xả được phiền hận. Phiền hận chỉ làm khổ mình, khổ người, không lợi cho ai cả. Quán xét như vậy chúng ta buông hết, không buồn giận ai, lo tu cho tâm an ổn.

Chúng ta thấy cuộc đời như ảo mộng, ngày nay có mặt đây, ngày mai đã mất rồi. Sống trong tạm bợ mong manh, mình tạm bợ, người tạm bợ... Vậy tại sao không thương nhau, nâng đỡ nhau?

Nếu chúng ta biết mình là người bị kêu án tử hình và những người xung quanh cũng bị kêu án tử hình thì đâu có buồn giận nhau. Trong cuộc sống hằng ngày khi lẫn lộn chung chạ nhau, có dẫm lên nhau hay có làm phiền toái nhau cũng bỏ qua.

Phải nghĩ đến cái chết, chớ để tâm buồn giận. Nghĩ đến cái chết, chúng ta mới thấy cuộc đời là tạm bợ, sống không có cái gì bảo đảm. Vậy buồn giận nhau để làm gì? Hãy buông xả hết những gì chứa chấp trong lòng. Có ai ở đời mãi đâu mà giận với hờn.

Chúng ta đã học Phật, vậy có tập được hạnh buông xả chưa? Đi chùa cúng Phật có còn giận hờn bạn bè anh em không? Nếu ai còn phiền giận thì ngay bây giờ hãy nguyện đức Phật chứng minh xả hết, cho lòng trống rỗng không còn vướng bận việc gì.

Dù có buồn giận ai từ mười năm hay hai ba mươi năm, ngày nay dứt khoát phải xả. Phiền hận là rắn độc, dại gì chúng ta chứa rắn độc trong nhà. Nếu chứa rắn độc trong nhà thì sớm muộn gì cũng bị nó cắn.

Thế nên khi biết phiền não là rắn độc thì phải xả ngay, đuổi ra khỏi nhà, không dung chứa nó. Biết như vậy là tu đó. Phiền hận thì không vui; hết phiền hận, tâm hồn rỗng rang trống trải thì rất vui vẻ.

Muốn được vui vẻ, chúng ta phải tập hỷ xả những vật bên ngoài, hỷ xả những phiền hận trong lòng. Trong ngoài đều hỷ xả hết mới có cái vui chân thật. Sở dĩ đức Phật Di Lặc cười hoài là vì Ngài hỷ xả, còn chúng ta buồn hoài là vì chúng ta cố chấp phiền hận.

Cố chấp phiền hận là nguyên nhân của đau khổ, của bệnh tật, rất xấu xa đê hèn, dứt khoát phải xả bỏ. Mọi người ai cũng muốn mình là người vui tươi, ai cũng muốn mình là người sung sướng, nhưng tại sao lại chứa cái nhân đau khổ? Có phải tự mình mâu thuẫn với mình không?

Khi nào giận ai, buồn ai là biết mình đang hại mình, làm cho mình xấu xa, làm cho mình đau khổ, làm cho mình bệnh hoạn.

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Khuôn Vàng Thước Ngọc: Mười chuẩn mực đạo đức cơ bản của Phật giáo (Chúc Phú)

Mười chuẩn mực đạo đức cơ bản của Phật giáo
Chúc Phú

[NSGN] - Đạo đức Phật giáo y cứ vào giới luật. Nếu xem giới luật là những nguyên tắc đạo đức mang tính bền vững, ổn định, không thay đổi, thì yêu cầu từ thực tiễn đời sống đòi hỏi cần có sự bổ sung những chuẩn mực đạo đức mang tính hỗ tương. Những chuẩn mực đạo đức bổ sung đó, theo sự phân định của một số bộ luật Phật giáo, thì đôi khi được xem là giới không quan trọng (khinh giới), có lúc được xem là những phép ứng xử (học pháp) giữa người với người.

Từ thực tiễn đời sống, để đạo đức Phật giáo dễ dàng lan tỏa, thì việc làm sáng tỏ những chuẩn mực đạo đức Phật giáo là yêu cầu bức thiết. Trong vô vàn những chuẩn mực đạo đức Phật giáo được thể hiện rải rác trong các bộ kinh, luật, luận, sớ giải… người viết tạm thời đề xuất mười chuẩn mực đạo đức cơ bản. Đó là: khiêm hạ, tàm quý, trung thực, kiên định, không phóng dật, nhẫn nhục, biết ơn, buông xả, dấn thân và tiết tháo.

1. Khiêm hạ

Trước hết, khiêm hạ là một hành xử đạo đức vắng bóng tự ngã, dẹp tan kiêu mạn. Kiêu mạn là một tập khí sâu dày của chúng sanh nói chung. Kinh Tăng chi nêu ra ba thứ kiêu mạn căn bản (1). Theo kinh Tập, khi cái tôi nhỏ lại thì mọi sự va chạm do kiêu mạn ít xảy ra: Ai phá hoại kiêu mạn/ Không còn chút dư tàn/ Như nước mạnh tàn phá/ Cây cỏ lau yếu hèn (2). Và theo Đức Phật, chỉ những ai chinh phục được tự ngã thì mới có thể nhiếp phục lòng kiêu mạn. Câu chuyện khoác lác của chàng thanh niên Saccaka khi dõng dạc tuyên bố: Dầu ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ, huống nữa là một người thường (3). Sau khi được Phật thuyết giảng, thanh niên Saccaka đã nhận ra sai lầm và biết cách ứng xử khiêm hạ với Đức Phật và chúng Tỳ-kheo. Chuyện tiền thân Đức Phật  số 125 cũng đề cập câu chuyện khoác lác tương tự, nhưng nhân thân là một vì Tỳ-kheo (4).

Thứ hai, khiêm hạ là thể hiện sự tôn trọng kẻ dưới và kính nhường người trên. Biết tôn trọng lẫn nhau trong giao tiếp, ứng xử là sự thể hiện đẳng cấp đạo đức. Từ câu chuyện ứng xử tôn trọng lẫn nhau giữa chim đa đa, khỉ và voi (5), Đức Phật đã dạy các thầy Tỳ-kheo: Những người rành rẽ Pháp/ Tôn kính bậc cao niên/ Kiếp này được khen ngợi/ kiếp sau sanh về Trời (6). Trong những hội chúng Sa-môn, Bà-la-môn thời Phật, chỉ có hội chúng đệ tử của Đức Phật là có sự nhường nhịn, tôn trọng lẫn nhau thể hiện ở các hành vi: Kính lễ bậc trưởng thượng/ Không ganh tị một ai (7). Truyền thống đạo đức này sở dĩ có được là do tính khiêm hạ tạo ra.

Thứ ba, khiêm hạ không có nghĩa là hạ thấp mình mà còn có nghĩa tự khẳng định bản thân, là tôn trọng chính mình trong yên lặng tỉnh giác. Trong nghĩa này, khiêm hạ gần với lòng tự trọng. Đó cũng là điều được Đức Phật huấn thị: Hãy học các dòng nước/ Từ khe núi vực sâu/ Nước khe núi chảy ồn/ Biển lớn động im lặng/ Cái gì trống kêu to/ Cái gì đầy yên lặng/ Ngu như ghè vơi nước/ Bậc trí như ao đầy (8).

Có thể thấy, một trong những chuẩn mực ứng xử của người học Phật là thái độ khiêm hạ, định tĩnh, nhu nhuyến, thong dong và vững chãi trước dòng xoáy của bản ngã và sở hữu của bản ngã.

2. Tàm quý

Theo Đại thừa bách pháp minh môn luận giải (9) thì tàm là tự hổ với mình và quý là thẹn với người. Trong nghĩa được sử dụng rộng rãi, thì tàm quý là sự hổ thẹn với chính mình cũng như với người khác. Hổ thẹn là năng lượng đạo đức có tác dụng trong nhiều phương diện.

Trong lãnh vực tu tập, nhờ lòng hổ thẹn thôi thúc, khi nghĩ về công lao giáo hóa của chư Phật, Bồ-tát, của các bậc Thánh tăng, nên nỗ lực tu tập. Trong mười lý do phát tâm Bồ-đề, tất cả đều có liên quan đến lòng hổ thẹn đối với ân đức lớn lao mà ta đã thọ nhận (10). Chính nhờ lòng hổ thẹn này thúc đẩy mà chúng ta nỗ lực tiến tu. Không biết hổ thẹn, khó lòng thăng tiến trong tu tập. Chiêm nghiệm sâu thêm lời dạy của ngài Quy Sơn: Họ cũng là trượng phu, ta đây cũng như vậy, cũng là một dạng thức khuyến tu dựa trên hiệu ứng của lòng hổ thẹn. Do bởi nghĩa này nên kinh điển gọi hổ thẹn là hai pháp trong sáng, trắng sạch (二種白法) (11). Hổ thẹn không những là động năng thăng tiến trong thiện pháp mà cũng có thể áp dụng trong thực tiễn sinh động của con người.

Trong liên hệ đời thường, đạo đức của gia đình, xã hội được hình thành cũng nhờ lòng biết hổ thẹn. Nhờ hai pháp này nên mới có thể chỉ được đây là mẹ hay đây là chị em của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ…(12). Kinh điển Nikaya cũng gọi hổ thẹn là hai pháp trắng (13) và hai pháp này quyết định phẩm vị, đạo đức của con người, vì nếu không có hai pháp này thì thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can (14). Nói theo kinh Trung bộ, nếu một người không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm (15). Đây cũng là điều được Đức Phật khẳng định trong kinh Phật thuyết như vậy (16).

Như vậy, hổ thẹn là một chuẩn mực đạo đức quan trọng, không những khẳng định nhân cách của con người mà còn góp phần tạo nên động lực thăng tiến ở nhiều phương diện, ở đời thường cũng như ở tâm linh. Hình ảnh một thanh niên thích trang sức, nhưng bị quấn quanh cổ một xác rắn hay xác chó... sẽ làm cho anh ta ngại ngùng, bứt rứt, xấu hổ, là minh họa sinh động về việc vận dụng thường xuyên năng lực hổ thẹn, nhằm chuyển hóa năng lượng dục vọng thấp hèn (17).

Là con người, phải biết hổ thẹn. Không biết hổ thẹn thì chưa phải là con người đúng nghĩa. Chính bởi điều này, chuẩn mực đạo đức hổ thẹn được Đức Phật khẳng định là hai pháp có khả năng che chở cho thế giới (18).

3. Trung thực

Trung thực là một chuẩn mực đạo đức được nhiều người mến mộ, tin yêu. Người trung thực luôn hứa hẹn một tương lai rộng mở. Trung thực biểu hiện qua nhiều dạng thức và quan hệ; mà ở đây, trung thực với chính mình và với tha nhân là hai tính chất chủ yếu.

Trước hết, cần phải trung thực với chính mình. Thiết tưởng điều này không cần phải bàn cãi. Mặc dù vậy, khi khảo sát sâu, mới thấy rõ đôi khi ta chưa trung thực với chính mình. Trung thực với chính mình là ý thức rõ ràng về tất cả các phương diện của bản thân như: khả năng, điều kiện, mặt mạnh cũng như mặt yếu, sở thích cũng như điều không ưa… Ẩn dụ một người đứng trên hồ nước, thì có thể nhận ra các con ốc, con sò, đàn cá bơi lội… với điều kiện hồ nước đó trong và lặng (19). Việc thắp sáng ý thức về những điều kiện của bản thân cũng như thế. Từ sự nhận thức rõ ràng này và thái độ chấp nhận đúng hiện trạng của bản thân, là sự khởi đầu cho thái độ sống trung thực với chính mình. Trung thực với chính mình có ảnh hưởng nhất định đến sự thành công của bản thân.

Thứ hai, trung thực với tha nhân. Đây là tiền đề để xây dựng niềm tin trong mọi mối quan hệ. Khi trung thực thì được người tin tưởng, và lòng tin là yếu tố quyết định sự bền vững cho mọi mối quan hệ giữa người với người. Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết: Ở đời này, lòng tin/ Tối thắng cho con người (20). Mở rộng ý nghĩa này có thể thấy, trong quan hệ thầy trò, vợ chồng, cha con, bạn bè… thì sự tin tưởng lẫn nhau quyết định đến hạnh phúc, bình yên cũng như tính bền vững của các mối quan hệ. Sống mà không tin nhau là hoạt cảnh của địa ngục. Và muốn tin nhau thì phải trung thực, không dối nhau. Ở nghĩa này, không trung thực hay lừa dối nhau là cửa ngõ của tội ác. Chính vì vậy, trong kinh Phật thuyết như vậy, Đức Phật đã khẳng định rất mạnh mẽ: Phàm một người nào đã vi phạm một pháp, Ta nói rằng không có ác nghiệp nào vị ấy không làm được. Thế nào là một pháp? Này các Tỳ-kheo, tức là rõ biết mà nói láo (21).

Trung thực hay không dối nhau là một chuẩn mực đạo đức cơ bản, là chất kết dính của mọi mối quan hệ, là yếu tố thành công trong mọi hoạt động của con người.

4. Kiên định

Kiên định là ý chí, là sự vững vàng trong quyết định, trong dự tính, trong mối quan hệ, trong lý tưởng hay con đường đã chọn. Tùy theo bối cảnh cụ thể mà kiên định được hiểu khác nhau. Chuẩn mực đạo đức kiên định quyết định tính cách, năng lực, giá trị… của con người.

Kiên định là sự nhất quán trong pháp tu. Với Đức Phật, đại thệ nguyện bên cội Bồ-đề trước đêm chứng đạo là sự thể hiện cho sự kiên định vững vàng: Cho dù da thịt, gân xương trở nên khô cằn, máu trong thân này dẫu có cạn kiệt, nhưng nếu không đạt đạo, Ta quyết không rời chỗ này (22). Có thể sự nỗ lực đó là đỉnh điểm của một tiến trình, nhưng qua đó đã cho thấy sự kiên định rất cần trên mọi chặng đường tu tập. Từ thệ nguyện của Đức Phật, liên hệ với con đường mà chúng ta đã và đang chọn hiện nay, có thể nhận ra những bất cập do vì không kiên định. Bởi lẽ, trong những pháp môn mà Đức Phật đã chỉ dạy, mỗi pháp hành có những yêu cầu khác biệt nhau, sự dao động trong pháp môn tu đôi khi phải trả giá bằng thời gian của cả đời người. Hơn thế, sự khác biệt giữa chúng sanh và Bồ-tát liên quan thâm thiết đến chuẩn mực kiên định này. Vì lẽ, trước hiện thực đau khổ, cả hai đều phát nguyện như nhau, tuy nhiên, yếu tố căn bản tạo nên sự khác biệt, chính là sự kiên định của mỗi bên.

Trong cuộc sống đời thường, kiên định rất cần trong mọi mối quan hệ. Trong bối cảnh này, chuẩn mực kiên định có thể được hiểu là tấm lòng trung thành, chung thủy, sắt son với tổ chức, với bạn bè, với người phối ngẫu. Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết trong kinh Tăng chi: Chính trong thời gian bất hạnh mới biết được sự trung kiên của một người, phải trong một thời gian dài không thể không khác được (23). Đây là một khái quát thấm đẫm trí tuệ của bậc Giác ngộ. Vì lẽ, phẩm chất đạo đức của con người được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau. Câu chuyện một dạ thờ chồng của Công chúa Yashodhara được ghi lại trong kinh Tiểu bộ (24) là hình ảnh tuyệt mỹ về đạo lý chung thủy, sắt son của người phụ nữ theo chuẩn mực đạo đức Phật giáo.

Dù trên bước đường tu hay trong thực tiễn đời sống, chuẩn mực đạo đức kiên định luôn được ca ngợi và vinh danh. Kiên định là dấu son trong phẩm hạnh cần có của một con người.

5. Không phóng dật

Trong những lời dặn dò thống thiết của Đức Phật trước khi Niết-bàn, thì không phóng dật là huấn thị thấm đẫm yêu thương (25). Không phóng dật là không buông lung, không chạy theo dục vọng, siêng năng tu tập các pháp lành. Đây là chuẩn mực đạo đức quan trọng, được đề cập trong nhiều bản kinh.

Theo kinh Tăng chi, không phóng dật là một pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, bao trùm và an trú hai lợi ích: lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai (26). Chỉ một pháp nhưng tác dụng không chỉ một đời, đủ thấy sự diệu dụng của pháp ấy to lớn đến mức nào. Kinh Tăng chi vừa dẫn còn sử dụng nhiều hình ảnh ấn tượng để biểu thị cho hạnh không phóng dật: như dấu chân voi, có thể dung nhiếp các dấu chân, như một ngôi nhà nóc nhọn thì mọi rui, kèo đều hướng về, như ngắt một chùm xoài thì các trái xoài đều nằm gọn trong tay, như vua Chuyển luân thì nắm quyền các vương quốc phụ thuộc, như ánh sáng của mặt trăng thì hơn hẳn những vì sao… Không những thế, các bản kinh quan trọng như kinh Pháp cú (27), kinh Tương ưng (28), kinh Tập (29)… đều ca ngợi phẩm chất đạo đức không phóng dật.

Trên phương diện tu tập, không phóng dật là yếu tố quyết định sự thành công của mọi pháp hành. Vì lẽ, thu thúc lục căn, không chạy theo ngũ dục là nghĩa thứ nhất của không phóng dật. Hình ảnh con dã can gầy gò chực chờ con rùa cử động được ghi lại trong kinh Tương ưng (30) là ẩn dụ sinh động về việc thu thúc các căn. Bởi lẽ, chỉ cần con rùa thò bất cứ một thân, phần nào ra, thì dã can sẽ tóm lấy. Do vậy, không phóng dật còn mang nghĩa tồn vong không những trong tu tập mà liên quan đến mọi dạng thức sinh tồn. Ở phương diện thứ hai, không phóng dật đồng nghĩa với tinh tấn, là siêng năng. Cần phải thấy, nhận thức được việc lành là điều quan trọng tuy nhiên đưa nhận thức vào thực tiễn đời sống là do bởi siêng năng. Siêng năng tạo nên sự thăng hoa, thành công trong mọi lãnh vực và là quán hạnh dung thông giữa pháp thế gian và pháp xuất thế.

Nếu coi quá trình tu tập và mọi sự thành công trong cuộc đời là những cỗ xe, thì không phóng dật là động lực cơ bản, không những giữ gìn cỗ xe đó không nghiêng, đổ, mà còn đưa cỗ xe tiến về phía trước.

6. Nhẫn nhục

Nhẫn nhục là sự chịu đựng, chấp nhận những khổ đau, bức bách, hủy nhục, khó chịu… do các điều kiện bên ngoài đem đến, nhưng tâm tư vẫn an tịnh. Đây là một phẩm chất đạo đức được thể hiện trong nhiều cấp độ. Trong kinh Trung bộ, hình ảnh kẻ đạo tặc dùng cưa, cưa tay chân nhưng hành giả vẫn không khởi sân tâm hay phẫn, não (31), là sự thể hiện của một phẩm chất nhẫn nhục cao tột. Phật giáo Đại thừa xem nhẫn nhục là một trong sáu hạnh quan trọng của con đường Bồ-tát.

Trước hết, trước những thách thức của điều kiện tự nhiên cũng như những tác động của con người, muốn tồn tại, cần phải biết an hòa và nhẫn nhịn. Tức là tạm an với điều kiện sống tự nhiên và nhẫn nhịn trong sự va đập, tương tác với môi trường xã hội. Nhẫn để mà sống chính là nghĩa này. Kinh Tăng chi còn gọi đó là kham nhẫn: Có hạng người không nhiếc mắng lại kẻ đã nhiếc mắng, không sân hận lại kẻ đã sân hận, không gây lộn lại với kẻ đã gây lộn. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là đạo hành kham nhẫn (32).

Thứ hai, trong cuộc sống đời thường, đôi khi nhằm chuyển hóa người, thì nhẫn nhục cần thể hiện trong giới hạn nhất định. Câu chuyện quỷ dạ xoa Alavaka được ghi lại trong kinh Tập (33) là một ví dụ điển hình. Chuyện kể rằng, một độ nọ, Đức Phật đang ở tại trú xứ của dạ xoa Alavaka. Dạ xoa Alavaka yêu cầu Đức Phật đi ra, Đức Phật hoan hỷ đi ra; dạ xoa lại yêu cầu Đức Phật đi vào, Ngài vẫn chấp nhận thực hiện. Đến lần thứ tư, Đức Phật không thực hiện theo yêu cầu của dạ xoa, kiên quyết bảo: Này Hiền giả, Ta sẽ không đi ra. Ông cần gì thì hãy làm đi? (34). Ba lần đi ra, đi vào theo yêu cầu tinh quái của quỷ dạ xoa, đủ thấy Đức Phật đã ứng xử nhẫn nhịn nhuần nhuyễn đến mức nào.

Thứ ba, nhẫn nhục là sức mạnh. Sức mạnh đây chính là sức mạnh làm chủ bản thân mình. Vì một khi thực hiện được hạnh nhẫn nhục, chứng tỏ một năng lực tu tập hùng mạnh. Nhờ năng lực đó, mới có thể kiểm soát tâm mình, vì chiến thắng bản thân mình là chiến công oanh liệt nhất (35). Con đường thực tập để có sức mạnh này bắt đầu bằng sự mở rộng tâm, trải tâm như đất như Đức Phật đã dạy Rahula trong kinh Trung bộ (36).

Nhẫn nhục là nhịn được những điều khó nhịn mà tâm vẫn an ổn, tuy là chuẩn mực đạo đức, nhưng mang ý nghĩa như một kỹ năng sống hướng thượng, thanh cao.

7. Biết ơn

Biết ơn được hiểu ở đây bao hàm cả việc báo ơn. Theo kinh Tăng chi, người biết ơn là một trong hai hạng người khó tìm được ở đời (37). Trong liên hệ duyên khởi, để hình thành con người, thì phải thọ nhận nhiều công ơn. Trong vô vàn những công ơn, theo kinh Đại thừa bổn sinh tâm địa quán, phẩm Báo ân (38), thì có bốn ơn cơ bản: ơn cha mẹ, ơn những người liên hệ quanh ta, ơn quốc gia và ơn Tam bảo.

Sự hiện sinh của một con người là do cha mẹ. Từ việc kế thừa nền tảng vật chất, cho đến nuôi dưỡng, kiện toàn tri thức, dựng vợ gả chồng, trao của thừa tự và hướng con về đường lành. Thực sự, khó có thể kể hết cũng như báo đáp công lao của cha mẹ. Nói như kinh Tăng chi: Nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi… cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha (39).

Kế đến, với một người bình thường, sở dĩ vững vàng về kiến thức, vững chãi trong địa vị, thuận lợi trong nhịp mưu sinh, an tâm và an toàn trong đời sống… là do sự hỗ trợ của nhiều người: từ thầy tổ, thân hữu, láng giềng, dòng họ... Nhận thức rõ về các công ơn đã thọ nhận, là thái độ sống đúng mực của một người trưởng thành.

Thứ ba, được sống và sống ổn định, an toàn là phước báo của con người. Vì một khi môi trường sống được đảm bảo, thì hạnh phúc mới vững bền và có thể an tâm hoàn thành sở nguyện. Sự đảm bảo về môi trường sống là do sự quan tâm, nỗ lực và hy sinh của giới chức lãnh đạo quốc gia. Nhận thức đúng về điều này để hành xử cho hợp lẽ, là tâm thế đúng mực.

Cuối cùng, sở dĩ hiểu được bản thân, nhận ra con đường hạnh phúc, có được phương tiện phù hợp với điều kiện nghiệp lực của mình, là do diệu hạnh của Tam bảo. Nếu như cha mẹ, bạn bè, thầy tổ, quốc gia có thể giúp ta vơi khổ và hạnh phúc trong một đời, thì Tam bảo có thể giúp ta vĩnh viễn thoát khổ và an lành trong nhiều kiếp. Và do vậy, người đệ tử Phật phải nhớ ơn và nỗ lực báo đáp thâm ân Tam bảo.

Biết ơn là chất liệu dệt nên phẩm hạnh của một con người. Nhận thức đúng và đầy đủ về các ơn cũng như nỗ lực báo đáp bằng những gì có thể, là chuẩn mực đạo đức tối cần của một người học Phật.

8. Buông xả

Buông xả là nghệ thuật ứng xử trong các mối quan hệ, là sự buông bỏ những ý nghĩ mừng vui, lo khổ đồng thời nỗ lực từ bỏ các tật xấu tích lũy từ nhiều đời.

Trước hết, lo nghĩ thường gắn với phiền muộn, nhất là lo nghĩ vẩn vơ, không liên hệ đến thiện pháp. Buông bỏ mọi điều lo nghĩ, sống với thực tại hiện tiền thì hạnh phúc gõ cửa. Điều này được Đức Phật chỉ dạy trong kinh: Quá khứ không truy tìm/ Tương lai không ước vọng/ Quá khứ đã đoạn tận/ Tương lai lại chưa đến/ Chỉ có pháp hiện tại/ Tuệ quán chính ở đây (40).

Trong thực tế đời sống, đôi khi cũng khó tránh khỏi việc lo nghĩ về những điều do cuộc sống đặt ra. Tuy nhiên, học cách buông bỏ những điều nhỏ nhặt, thì đôi khi gặt hái những kết quả lớn lao. Biết buông bỏ, biết hy sinh là tiền đề dẫn đến mọi sự thành tựu. Câu chuyện chú khỉ trong kinh Tiểu bộ (41), vì hốt hoảng lo tìm hạt đậu bị đánh rơi, nên đã buông tay đánh rơi cả nắm đậu, là ẩn dụ sinh động về trường hợp này.

Không những thế, biết cách buông bỏ những ký ức liên hệ đến khổ đau là một liệu pháp điều phục tâm tích cực. Vì có những chuyện u hoài xảy ra trong quá khứ xa xưa, nhưng tâm tư cứ giữ chặt, và nỗi đau đôi khi tái hiện về, làm cho người quằn quại, tái tê. Buông xả những chuyện không hay là một trong những cách thức giữ gìn nhựa sống cho chính mình.

Hạnh buông xả còn là một dạng thức biểu hiện cho tâm thương yêu. Vì lẽ, nhờ buông xả nên dễ dàng tha thứ lỗi lầm của người, tạo cho kẻ có lỗi một cơ may để phục thiện. Buông xả còn giúp người ta trở nên rộng rãi, không ích kỷ, nhỏ nhen: Các sở hành của mình/ Không nhỏ nhen vụn vặt (42). Nhờ hạnh buông xả, nên tâm bố thí được khởi sinh. Nói theo kinh điển, nhờ buông xả, tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở (43). Ngoài ra, buông xả còn là an trú tâm với những gì hiện có. Biết cách buông bỏ những đòi hỏi không hợp lý, là một trong những cách thức để đem đến sự an ổn đời thường.

Muốn có được một cuộc sống đúng nghĩa và trọn vẹn thì phải học cách buông bỏ, xả ly. Buông xả không những giúp thanh lọc tâm, mà còn là phương thức vươn lên bằng cách từ bỏ những hiểu biết bất toàn, khiếm khuyết.

9. Dấn thân

Dấn thân là sự phát tâm vì lợi ích của tha nhân, trong một số trường hợp phải chấp nhận sự hy sinh, mất mát. Dấn thân là hành động mang tâm nguyện Bồ-tát, vì đó là sự phát tâm đem lại lợi ích cho nhiều người.

Dấn thân là phát tâm Bồ-đề, được dẫn khởi từ sự lập nguyện, phát tâm. Vì nguyện lập thì có thể độ chúng sanh, tâm phát thì Phật đạo có thể thành (44). Ở nghĩa này, Đức Phật là minh chứng cao cả cho sự lập nguyện, dấn thân: Ta mang cỏ munja/ Vững thay, đây đời sống/ Thà Ta chết chiến trận/ Tốt hơn, sống thất bại (45). Công cuộc tự chuyển hóa mình cũng đồng thời là một quá trình nỗ lực, dấn thân.

Dấn thân là hành động mang tâm nguyện Bồ-tát. Vì cuộc đời vốn dĩ đầy bất hạnh và lắm khổ đau, người mang tâm nguyện Bồ-tát luôn nỗ lực bằng những gì có thể, nhằm làm vơi khổ cho đời. Dấn thân không đồng nghĩa với sự liều mạng, quên thân. Dấn thân theo chuẩn mực Phật dạy phải dựa trên cơ sở của sức mạnh, tình thương và trí tuệ. Chỉ có như vậy thì sự dấn thân mới tròn đầy ý nghĩa, và giảm đi những tổn thất không đáng có trong khi thực thi hạnh nguyện giúp đời.

Đạo Phật mang nghĩa vị tha, và dấn thân là một biểu hiện tạm quên đi bản ngã. Dấn thân là sự tận hiến cho đời mà không nghĩ về tư lợi. Trong nhiều cách thức nhiếp hóa mọi người được đề cập trong kinh Duy Ma Cật (46), thì việc làm lợi lạc cho tha nhân (Lợi hành nhiếp) có ý nghĩa ưu thắng. Hình ảnh một cây hương tự đốt cháy mình có thể hiểu ở nhiều nghĩa, nhưng việc dâng tặng cho đời sự thơm thảo, là sự thực được ghi nhận từ cây hương. Qua những nét sơ phác về cuộc đời Đức Phật, từ nhiều kiếp sống trong 547 chuyện tiền thân, cho đến bốn mươi lăm năm thuyết giảng sau khi thành đạo, là một thiên trường ca bất tận về hạnh nguyện dấn thân: Vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người (47).

Một khi sở dục đang lên ngôi, cái ác đang chờ chực, ngấp nghé, thì cuộc đời cần lắm sự lập nguyện, dấn thân. Dấn thân biểu lộ của dũng khí, lưu xuất từ cơ sở tâm thương yêu và thể hiện bằng con mắt tuệ. Chỉ có như vậy hạnh dấn thân mới đem đến hạnh phúc, an lạc cho nhiều người.

10. Tiết tháo

Tiết tháo là khí tiết, là danh dự và phẩm vị của con người. Sống đúng với chuẩn mực đạo đức cơ bản của một con người, theo những nguyên tắc đạo đức làm nền tảng nào đó, được gọi là tiết tháo.

Phẩm chất của một con người gồm một cái tên để phân biệt, cộng với những phẩm hạnh đạo đức tương ưng. Giữ gìn phẩm hạnh đạo đức riêng có đồng nghĩa với việc giữ gìn tiết tháo. Một khi phải sống trong sự tương giao, đối đãi, khi chuyện nhục vinh, danh lợi vẫn có khả năng chi phối con người, thì việc giữ gìn tiết tháo là vấn đề mang nhiều ý nghĩa nhân bản, nhân văn. Trong hệ quy chiếu tương đối của đạo đức thế gian, thì tiết tháo vẫn đóng một vai trò quan trọng. Không nên lẫn lộn giữa các hệ quy chiếu khác nhau để xét đoán vấn đề.

Trong kinh Tiểu bộ, câu chuyện con sư tử bị làm nhục chứa đựng nhiều giá trị tham khảo (48). Chuyện kể rằng, có một con sư tử cái sống gần hang của chó rừng. Một ngày nọ, hội đủ nhân duyên, chó rừng ngỏ lời cầu hôn sư tử. Buồn bực và uất ức vì lời cầu hôn vô lễ, sư tử cái định lấy cái chết để rửa nỗi nhục kia. May mắn được gặp được sư tử em, là tiền thân Đức Phật, đã tận tình giải bày, nên sư tử chị đã vượt qua tình trạng khó xử đó. Có thể, câu chuyện chỉ là liên hệ gợi mở, nhưng qua đó cho thấy sự quý trọng tiết tháo đôi khi còn quan trọng hơn cả sinh mạng của chính mình.

Mỗi con người, mỗi chúng sanh sở hữu những phẩm vị tương ứng. Vì danh phải tương xứng người (49). Từ kẻ thứ dân cho đến nam nữ, Sa-môn, Bà-la-môn đều có những phẩm vị đạo đức cơ bản. Sống đúng theo những chuẩn mực này được gọi là sống có tiết tháo. Kinh Tương ưng đã đưa ra một khái quát đầy giá trị về tiết tháo: Giữa các loài hai chân/ Chánh giác là tối thắng/ Giữa các loài bốn chân/ Thuần chủng là tối thắng/ Trong các hàng thê thiếp/ Nhu thuận là tối thắng/ Trong các hàng con trai/ Trung thành là tối thắng (50). Có thể cần bổ chính thêm vài điều trong những phẩm vị vừa dẫn, nhưng ít ra qua đó đã cho thấy rằng, tiết tháo là điều rất mực quan trọng trong việc định hình nên phẩm chất của con người.

Tạm kết

Đạo đức là chất liệu tạo nên những hệ giá trị riêng có của con người và xã hội loài người. Đạo đức Phật giáo ngoài những nguyên tắc siêu thế, thanh cao, còn bao hàm những chuẩn mực thiết thực, không khô cứng, có thể kiểm nghiệm hiệu năng ngay bây giờ và tại đây. Mười chuẩn mực đạo đức vừa nêu tuy chưa phải là tất cả, nhưng nếu như được thực thi, thì nhất định quả ngọt sẽ đong đầy.

Chú thích

(1) Kinh Tăng chi, chương Ba pháp, phẩm Sứ giả của Trời, kinh Kiêu mạn. Nguyên văn: kiêu mạn của tuổi trẻ, kiêu mạn của không bệnh, kiêu mạn của sự sống.
(2) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Rắn.
(3) Kinh Trung bộ, tập 1, Tiểu kinh Saccaka, số 35.
(4) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Người nô lệ Katahaka, số 125.
(5) Cullavagga, chương 6, Sàng tọa, tụng phẩm thứ hai, chuyện Chim đa đa, khỉ và voi, đoạn 262. Xem thêm, kinh Tiểu bộ, tập 4, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Con chim trĩ, số 37.
(6) Cullavagga, Sách đã dẫn, bài kệ về sự kính trọng, đoạn 263.
(7) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Thế nào là giới.
(8) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Nalaka.
(9) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 四 十 四 冊 No. 1836, 大 乘 百 法 明 門 論 解.
(10) Xem, Bài văn khuyến khích phát tâm Bồ-đề, HT.Trí Quang dịch, bản ấn tống, 1997.
(11) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 四 十 五 冊 No. 1910, 慈 悲 水 懺 法 卷 下.
(12) Kinh Tăng chi, chương Hai pháp, kinh Hai loại tội.
(13) Kinh đã dẫn.
(14) Kinh đã dẫn.
(15) Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Giáo giới La Hầu La ở Am Bà La, số 61.
(16) Kinh Tiểu bộ, kinh Phật thuyết như vậy, chương Hai pháp, phẩm 2.
(17) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh An trú tầm, số 20.
(18) Kinh Tăng Chi, chương Hai pháp, kinh Hai loại tội.
(19) Xem, Kinh Tăng chi, chương Một pháp, phẩm Đặt hướng và trong sáng, kinh Tâm đặt sai hướng.
(20) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Alavaka.
(21) Kinh Tiểu bộ, kinh Phật thuyết như vậy.
(22) For the first time edited in the original Pali by Y Fausboll, and translated by T.W. Rhys Davids, Buddhist Birth stories or, Jataka Tales. The oldest collection of folk-lore extant: Being the Atakatthavannana. Volume I, London, 1880, p. 96. “My skin, indeed, and nerves, and bones, may become arid, and the very blood in my body may dry up; but till I attain to complete insight, this seat I will not leave!
(23) Kinh Tương ưng, tập 1, chương ba, Tương ưng Kosala, phẩm thứ hai, kinh Bện tóc.
(24) Kinh Tiểu bộ, tập 8, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Đôi ca thần Canda, số 485.
(25) Kinh Trường bộ, tập 1, kinh Đại bát Niết-bàn, số 16.
(26) Kinh Tăng chi, chương Sáu pháp, phẩm Dhammika, kinh Không phóng dật.
(27) Kinh Tiểu bộ, kinh Pháp cú, phẩm Không phóng dật.
(28) Kinh Tương ưng, tập 1, phẩm Thứ hai, kinh Không phóng dật, tập 5, thiên Đại phẩm, chương 1, Tương ưng đạo, phẩm Không phóng dật.
(29) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Đứng dậy; kinh Bại vong.
(30) Kinh Tương ưng, tập 4, chương 1, Tương ưng sáu xứ, phần g, kinh Con rùa.
(31) Kinh Trung bộ, tập 1, kinh Ví dụ cái cưa, số 21.
(32) Kinh Tăng chi, chương Bốn pháp, phẩm Đạo hành, kinh Kham nhẫn.
(33) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Alavaka.
(34) Kinh đã dẫn.
(35) Kinh Tiểu bộ, kinh Pháp cú, phẩm Ngàn, câu 103.
(36) Kinh Trung  bộ, tập 2, Đại kinh giáo giới La Hầu La, số 62.
(37) Kinh Tăng chi, chương Hai pháp, phẩm Các hy vọng.
(38) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 三 冊 No. 159, 大 乘 本 生 心 地 觀 經, 卷 第 二,  卷 第 三.
(39)  Kinh Tăng chi, chương Hai pháp, phẩm Tâm thăng bằng, kinh Đất.
(40) Kinh Trung bộ, tập 3, kinh Nhất dạ hiền giả, số 131.
(41) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Một nắm đậu, số 176.
(42) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Từ bi.
(43) Kinh Tương ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, phẩm Phước đức sung mãn, kinh Mahanama.
(44) Đại sư Thật Hiền, Phát Bồ-đề tâm văn, HT.Trí Quang dịch, bản ấn tống 1997, tr.30.
(45) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, kinh Tinh cần.
(46) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 十 四 冊 No. 474, 維 摩 詰 所 說 經, 善 權 品 第 二.
(47) Kinh Tăng chi, chương Một pháp, phẩm Một người, kinh Như Lai.
(48) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện Con chó rừng, số 152.
(49) Kinh Tương ưng, tập 1, chương 7, Tương ưng Bà-la-môn, phẩm A-la-hán thứ nhất, kinh Bất hại - Ahimsaka.
(50) Kinh Tương ưng, tập 1, thiên có kệ, Tương ưng chư Thiên, phẩm Vườn hoan hỷ, kinh Giai cấp Sát-đế-lỵ.

Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2012

Khuôn Vàng Thước Ngọc: Tu thân (Cổ Học Tinh Hoa) - Self cultivation

From ancient sayings: "If we see someone good, try to emulate. If we see someone bad, check ourselves and change if necessary. If we ourselves have good points, try to keep them. If we have flaws, try to eliminate them."

Tu Thân
Trích "Cổ Học Tinh Hoa"
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc , Từ An Trần Lê Nhân

Thấy người hay thì phải cố mà bắt chước; thấy người dở thì phải tự xét xem có dở như thế không để mà sửa đổi.

Chính mình có điều hay, thì phải cố mà giữ lấy; chính mình có điều dở thì phải cố mà trừ đi.

Người chê ta, mà chê phải, tức là thầy ta; người khen ta, mà khen phải, tức là bạn ta; còn người nịnh hót ta lại là người cừu địch hại ta vậy.

Cho nên người quân tử trọng thầy, quý bạn và rất ghét cừu địch, thích điều phải mà không chán, nghe lời can mà biết răn... như thế dù muốn không hay cũng không được.

Kẻ tiểu nhân thì không thế. Cứ bậy mà lại ghét người chê mình; rất dở mà lại thích người khen mình; bụng dạ như hổ lang, ăn ở như cầm thú, mà thấy người ta không phục, lại không bằng lòng; thân với kẻ siểm nịnh, xa cách kẻ can ngăn, thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chê..  Như thế dù không muốn không dở cũng không được.

(Tuân Tử)

Thứ Ba, 21 tháng 2, 2012

Khuôn Vàng Thước Ngọc: Chỉ biết có mình (Cổ học tinh hoa) - Reduce selfishness

From a collection of ancient lore: "People commit myriad transgressions only because of the 'looking out for number one' syndrome."

Cổ học tinh hoa 
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Từ An Trần Lê Nhân

Chỉ biết có mình

Người ta sở dĩ đến nỗi phạm phải nghìn tội lỗi là chỉ vì cái bệnh “chỉ biết có mình”. Vì cớ mình chỉ biết có mình, mình mới suy tính thiên phương bách kế: chỉ muốn cho mình giàu, chỉ muốn cho mình sang, chỉ muốn cho mình yên, muốn cho mình vui, chỉ muốn cho mình sống, chỉ muốn cho mình thọ, còn người ta nghèo, hèn, nguy khổ, lụn bại, chết chóc, nhất thiết là chẳng nghĩ gì đến cả. Bởi thế mà sinh ý chẳng liên can, thiên lý đến tuyệt duyệt, tuy có hình người, kỳ thực không khác gì cầm thú.

Ví bằng trừ bỏ cái bệnh “chỉ biết có mình”, tâm địa rộng rãi công minh, giàu, sang, nghèo, hèn, vui, khổ, sống, chết đều cùng chung với cả loài người, thì sinh ý quán triệt, ai nấy được hả lòng mà thiên lý giữ được trọn vẹn. Thế là thân ta cùng với muôn vật là nhất thể vậy.

Tiết Huyên

LỜI BÀN:

Chỉ có biết mình, tức là ích kỷ, tức là có bao nhiêu cái hay chỉ muốn vơ vét vào cho mình hết cả. Khi người đã có tính ích kỷ, là người để mình ra ngoài nhân loại, chẳng những không làm gì lợi cho thiên hạ lại còn như chỉ làm hại thiên hạ, vì khi mình chỉ cần lợi cho mình, tất thiên hạ phải phần thiệt vào đấy. Nên người ích kỷ là người mất hết nhân nghĩa, không còn ai trông cậy được nữa. Voltaire xưa có nói: “Chỉ hay cho mình, tức là không hay cho ai nữa”. Cái tính tư kỷ nó làm cho cạn ráo hết cả nhân tình rồi còn đâu. Ví bằng bỏ được cái tính ích kỷ thì đời người sao có như bây giờ.

Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2012

Khuôn Vàng Thước Ngọc: Nên ăn chay, giữ giới (Hòa thượng Thích Giác Nhiên)

The Most Venerable Thích Giác Nhiên encouraged all Buddhists to adopt a lifetime vegan diet and adhere to the five basic Buddhist precepts (no killing, no lying, no stealing, no engaging in sexual misconduct, no consuming intoxicants).

Trích đoạn từ Phật Pháp Vi Diệu do Hòa thượng Thích Giác Nhiên chủ giảng tại chùa Hoằng Pháp, Việt Nam.

Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

Khuôn Vàng Thước Ngọc: Ý nghĩa phước hay họa ngày 23 tháng chạp đưa Ông Táo về Trời

Fish out of water - imagine it's us.
Hãy tưởng tượng chúng ta là cá đang bị bắt ra khỏi nước.
One of the lunar New Year customs involves purchasing the red carp, for it is believed to be the vehicle to take the Kitchen God back to Heaven. The Venerable Thích Trí Giải explains from a Buddhist perspective why blessing comes from virtuous deeds, not superstition.

Bài "Ý nghĩa phước hay họa ngày 23 tháng chạp đưa Ông Táo về Trời" của Thầy Thích Trí Giải đăng trên trang Ẩm Thực Chay, kính mời bạn đọc tham khảo.

Táo Quân (chữ Hán: 灶君); Táo Vương (灶王) hay Ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam và Trung Hoa được xem là vị thần cai quản việc bếp núc trong mỗi nhà; Táo (灶) có nghĩa là bếp. Việt Nam và Trung Hoa có những truyền thuyết về Táo Quân khác nhau. [1]

Thờ cúng Ông táo theo Văn hóa Trung Quốc
Người Trung Quốc cho rằng trước kia mỗi tháng vua bếp lên trời một lần vào ngày tối (ngày cuối tháng âm lịch) để báo cáo về từng người trong mỗi gia đình nhưng sau này, mỗi năm vua chỉ lên trời một lần vào ngày 23 hoặc 24 tháng chạp. Vào ngày đó, người Trung Quốc bày bàn thờ gần bếp, cúng vua bếp bằng thịt, cá, rượu nếp, bánh kẹo. Ngoài ra còn có nước và cỏ khô cho ngựa của vua bếp "ăn" để bay và chở vua lên trời. [2]

Thờ cúng Ông táo theo Văn hóa Việt Nam
Người Việt quan niệm ba vị Thần Táo định đoạt phước đức cho gia đình, phước đức này do việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà. Bàn thờ thường đặt gần bếp, trên có bài vị thờ viết bằng chữ Hán. Hàng năm, đúng vào ngày 23 tháng chạp là ngày Táo Công lên chầu trời nên có nơi gọi ngày này là "Tết ông Công", lễ cúng có cá chép vì người Việt cho rằng, ông Táo cưỡi cá chép lên trời. [3]

Người dân Việt Nam theo tập tục văn hóa thờ cúng Ông Táo để cầu phước, cầu tài, gia đình hưng thịnh. Rồi cứ mỗi dịp tết Âm lịch, người dân thôn Thủy Trầm, xã Tuy Lộc, huyện Cẩm Khê (Phú Thọ) lại tất bật quăng chài, thả lưới thu hoạch cá chép đỏ để phục vụ nhu cầu của người dân trong ngày 23 tháng chạp đưa ông Táo về trời. Xem bài “Làng chuyên cung cấp "phương tiện" cho ông Táo

Họ phục vụ cho những người mê tín dị đoan mua cá làm phương tiện để đưa Ông Táo về trời để cầu phước. Trong sự tín ngưỡng văn hóa nhân gian Việt Nam, ngày 23 tháng chạp đã giết chết biết bao nhiêu sinh mạng (cá chép vàng) để cúng Ông Táo.

Theo văn hóa Phật giáo: Phước hay họa cũng từ nơi tâm, người Phật tử cần phải có Chánh kiến thấy đúng như thật, không nên theo những văn hóa  mê tín dị đoan tiếp tay kẻ xấu hại sinh mạng thì tổn phước, tổn lòng từ bi, thì tai họa ắt sẽ đến.

Lòng từ bi của nhà Phật thể hiện văn hóa ăn chay, phóng sinh để tôn trọng sự sống, Đức Phật dạy “trong mỗi chúng sinh đều có Phật tính.” Mua cá chép vàng về cúng Ông Táo để cầu phước, nhưng việc làm đó hoàn toàn vô ích, chẳng những không có phước mà còn bị mất phước.

Trong Kinh Phạm Võng Đức Phật dạy:
Này Phật Tử!  “Nếu tự giết, dạy người giết, dùng phương kế giết, khen ngợi giết, thấy giết mà vui theo. Cho đến dùng thần chú để giết, nhân giết, duyên giết, phương pháp giết, nghề nghiệp giết. Cho đến tất cả các loài có mạng sống không được cố giết. Là Bồ Tát nên thường khởi tâm từ bi, dùng phương tiện cứu giúp bảo hộ tất cả chúng sanh. Mà trở lại buông tâm khoái ý sát hại sanh mạng, Bồ Tát này phạm Ba-la-di tội.” [4]

Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật dạy: “Cái quý nhất của chúng sinh đó là 'thân mạng', cái yêu quý nhất của chư Phật là chúng sinh, Hay cứu thân mạng chúng sinh tức là hay hoàn thành tâm nguyện của chư Phật”.

Trong Kinh Phân Biệt Thiện Ác báo ứng:
Hỏi: Làm việc gì  thâu hoạch quả sống lâu ?
Đáp: Có 10  điều. Những gì là 10:

1. Lìa lỗi tự mình giết hại.
2. Lìa lỗi khuyên bảo người khác giết hại.
3. Lìa lỗi sướng thích đối với việc giết hại.
4. Lìa lỗi thấy người giết mình phụ trợ theo.
5. Cứu khỏi tội chết trong hình ngục.
6. Phóng thích  thân mạng (phóng sanh).
7. Ban cho mọi loài pháp không sợ hãi.
8. Chẩn cấp cho người bệnh.
9. Bố  thí thức ăn đồ uống.
10. Cúng dường đèn đuốc, cờ phướn.

Như vậy là 10 việc làm thu hoạch phước báo trường thọ.

Nếu chúng ta là người Phật tử thì ngày 23 tháng chạp không nên theo tập tục văn hóa mê tín dị đoan mua cá chép vàng về để giết hại cúng Ông Táo, việc làm ấy sai trái đạo lý, tổn hại lòng từ bi, chẳng những không có phước còn mang tội, nghiệp báo kiếp sau sinh mạng sẽ tổn thọ.

Trong Luận  Đại  Trí  Độ cũng có nói rằng: “Trong các việc ác, nghiệp sát lớn nhất. Giữa các việc lành, phóng sanh trên hết.” Vì vậy chúng ta là Phật tử cần phải hành theo lời Phật dạy, không mua cá chép để cúng Ông Táo, không theo văn hóa mê tín dị đoan, tức là chúng ta không có tiếp tay cho những người kia lợi dụng nuôi cá để bán trong ngày 23 tháng chạp

Phước hay họa do tâm tạo
Phước hay họa, thiện, ác cũng từ do từ tâm tạo, nếu tâm chúng ta hành thiện thì cuộc sống chúng ta sẽ an lạc, Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu ta nói hay làm với tâm ô nhiễm thì khổ não sẽ theo sau như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe. Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Nếu ta nói hay làm với tâm thanh tịnh thì hạnh phúc sẽ theo sau như bóng với hình.” [5]

Qua đó chúng ta thấy rằng họa hay phước do tâm tạo, muốn gia đình bình an, hạnh phúc, gia đạo hưng thịnh, không nên tin vào đấng Thần linh nào cả, mà hãy cần thiết lập tâm chúng ta một cách bền vững, bằng niềm tin vào Chánh Pháp và Trí tuệ để sống đúng đạo đức nhân bản bằng cách giữ gìn năm giới:

Mỗi người tự mình không sát sanh và khuyên người đừng sát sanh.
Mỗi người không trộm cắp và khuyên người đừng trộm cắp.
Mỗi người không tà hạnh và khuyên người đừng tà hạnh.
Mỗi người không nói dối và khuyên người đừng nói dối.
Mỗi người không uống rượu và khuyên người đừng uống rượu.

Năm giới là nền tảng xây dựng đời sống hạnh phúc an ổn cho gia đình và xã hội. Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta phải có niềm tin vững chắc, khi phước đến không mừng, họa đến không lo. Cứ tùy duyên mà vui sống. Như khi ta gặp hoạn nạn, như bệnh hoạn đau yếu, đang sống cảnh cô độc, hoặc giả đang mang chứng bệnh nan y v.v… chẳng hạn, thì ta biết đó là do nghiệp quả của ta đã gây tạo, nên giờ đây ta phải trả. Nhờ ngày hôm nay chúng ta có tu, có phước báu để trả nợ kiếp trước, khi trả hết nợ không phải chúng ta chuyển họa thành phước sao?

Chúng ta cố gắng tu hành làm thiện, tụng Kinh, niệm Phật, trì Chú, hành thiền (phước vô lậu)…bố thí, cúng dường (phước hữu lậu) …thì cái chết có đến với chúng ta, cũng chẳng có gì phải lo sợ, vì chúng ta đã trả nghiệp nhân đời quá khứ, và ta biết rằng ai cũng phải bước vào cửa tử. Đây là con đường mòn mà tất cả mọi người già trẻ bé lớn gì cũng phải đi qua. Khi xả báo thân này thì phước báo tu hành trong kiếp này sẽ đưa chúng ta đến một cảnh giới an lành (Niết-Bàn) giải thoát khổ đau sinh tử. Như vậy, không phải là ta đã chuyển họa thành phước đó sao?

Ngược lại chúng ta cầu giàu sang, phước báu, con cái bình an, gia đạo hưng thịnh… không biết tu hành tạo phước, theo những tập tục văn hóa mê tín dị đoan cúng vái Thần linh, sát sinh hại vật để cúng tế cầu khẩn, thì không phải là phước trong họa sao?

Trong các tôn giáo đa Thần hay nhất Thần, họ tin tưởng vào đấng Thần linh có quyền năng, ban ơn giáng họa, cho nên những tín đồ mới sát sinh hại vật để cúng tế Thần linh, ban phước….

Khi Đức Phật thị hiện xuống Ấn Độ, Ngài đã dẹp bỏ những tư tưởng ban phước giáng họa của Thần linh dưới dạng mê tín dị đoan. Đức Phật dạy rằng: “Phước họa đều do nghiệp mình tạo, mọi việc trên cõi đời này đều được xét xử công bằng dựa trên luật nhân quả, nghiệp báo.”

Nếu người làm ác phải gánh quả báo xấu, làm thiện được hưởng kết quả tốt đẹp, không tin vào đấng Thần linh nào cả: “Đừng tin tưởng một điều gì vì văn phong. Đừng tin tưởng điều gì vì vin vào một tập quán lưu truyền. Đừng tin tưởng điều gì vì cớ được nhiều người nhắc đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của Thánh nhân, đừng tin tưởng vào điều gì do ta tưởng tượng và lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng một điều gì chỉ vin vào uy tín của các thầy dạy mình. Chỉ tin tưởng cái gì mà chính mình đã từng trải, kinh nghiệm và nhận là đúng, là có lợi cho mình và kẻ khác. Chỉ có cái đó mới là mục đích tối hậu, thăng hoa cho con người và cuộc đời, các người hãy lấy đó làm chỉ chuẩn."

Trong thời Phật còn tại thế Xá Lợi Phất đã thưa với Đức Phật rằng:
- “Xin Ngài chỉ dạy xem tại sao vị Tỳ kheo đó rất thông minh, mà lại bị quả báo luôn luôn bị bỏ sót, nên phải ăn cơm của Xá Lợi Phất chia cho”.
Đức Phật nói rằng:
-“Vị Thầy này không phải mới tu, mà tiền kiếp đã là một Thượng tọa. Tuy có giới phẩm, nhưng vị này không bỏ lòng ích kỷ. Quý Phật tử nên suy nghĩ điều này, tu lâu, tạo được nhiều phước, nhưng tánh ích kỷ, ganh tỵ vẫn còn nguyên, thì vẫn phải trả quả báo.”

Vì thế con người muốn có cuộc sống an lạc và hạnh phúc, cần phải tu nhơn tạo phước, chứ không phải chỉ cầu nguyện, van xin khấn vái suông, vào những vị Thần linh, Ông Táo, Thần Tài, Thổ Địa, hoặc tử vi tướng số….

Chỉ có phước báu mới có thể giúp đỡ con người được tai qua nạn khỏi, được bình yên may mắn. Phước báu có được do những việc làm phước thiện, tốt lành, lương thiện, chẳng hạn như: ăn chay, bố thí cúng dường, đi chùa lễ Phật, ấn tống kinh sách, cứu người giúp đời, tụng kinh niệm Phật, trì chú thiền quán, trì giới nhẫn nhịn. Phước báo không phải mùa cá chép vàng, vàng mã,… để cúng tế Thần linh ban phước một điều hết sức phi lý trái chân lý. Vì vậy người Phật tử của chúng ta không bao giờ theo những văn hóa mê tín dị đoan như thế.

Trí Giải

Chú thích:
[1] Tự điển Bách Khoa Toàn Thư
[2] Xem bài Người Trung Quốc ăn Tết ra sao?
[3] Nguồn gốc và ý nghĩa những từ ngữ Tết
[4] Kinh Phạm Võng, Bồ Tát Tâm Địa Phẩm lược sớ, Thích Nữ Trí Hải Việt dịch giới thứ nhất
[5] Kinh Pháp Cú số 1 phẩm song yếu

http://amthucchay.blogspot.com/2012/01/y-nghia-phuoc-hay-hoa-ngay-23-thang.html